Không biết rằng trên cõi đời này, người nào đã đọc và tự đặt nghi vấn tác giả của bốn câu trên là người nào và họ viết làm gì. Không biết rằng trên cõi đời này, người nào hay cái gì đã khiến cho người nào đó phải thốt lên não nuột như kia. Không biết và không biết. Chắc có nhẽ Nam Cao cũng thế.
Phải chăng ông cũng chẳng hay biết gì tới lời than với thân, than với trời của Từ, bởi khi kết thúc truyện ngắn “Đời thừa”, ông lại bỏ lửng câu hát ru của Từ. nhường nhịn như câu hát ra này là dấu chấm hỏi mà Nam Cao vô tình hay cố tình đặt vào cuộc thế Từ. Nhưng không, cái dấu chấm hỏi mà Nam Cao đặt vô tình hay cố tình lại là cái dấu chấm than mà ông, dương như đã có tính trước, đặt vào cuộc thế chồng của Từ – văn sĩ Hộ. Ông chấm than cho cái tài của Hộ, cho cái lương tâm nghề nghiệp, cho cái đẹp trong con mắt Hộ. Dấu chấm than như một cung điệu cao vút đang rung nhịp giữa đời Hộ, giữa cái xã hội thực dân nửa phong kiến này. Không biết rằng trên cõi đời này, có người nào đã từng hỏi sao Nam Cao lại chấm dấu chấm than kia đẹp tới thế kia? Không biết và không biết. Phải chăng chỉ còn mỗi Nam Cao mới biết ông đang làm gì. Ông cứ chấm than dài mãi để rồi kết thúc bằng dấu chấm hết cho cuộc thế Hộ. Hộ bế tắc, túng quẫn và cuộc thế của văn sĩ này khởi đầu “khốn nạn”, lắm những đau thương.
Con người Hộ, dưới ngòi bút của Nam Cao, là một người có tài trong việc “ngòi bút thơ”. Quả thế, Hộ “là một nhà văn”. Và anh muốn qua ngòi bút của mình để có thể mang tới tình thương, tình yêu của một con người cho tha nhân. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có bao nhiêu người như Hộ, nhất là vào cái thời mà phong kiến, thực dân chia để trị này? Quá lớn lao, quá cao cả, quá con người! Nhưng Nam Cao lại đẩy anh vào một tình huống mà tới trời cũng có thể khó khắc phục được. cuộc thế của “gã trẻ tuổi say mê lí tưởng” “vốn nghèo” nãy đã gặp được Từ. Hoàn cảnh đưa đẩy đã khiến cho Hộ và Từ nên vợ nên chồng. Hộ lấy Từ vì Hộ thương cho hoàn cảnh của Từ và anh muốn sống để nuôi Từ. Nhưng có nhẽ chính vì lòng thương người của Hộ đã đẩy anh vào cuộc sống “áo cơm ghì sát đất”. Nó đã phản bội anh. Lòng thương người của Hộ đã bắt anh phải hận đời, hận người. Hộ đã nghèo, nay còn khốn khổ hơn. Khi còn một thân một mình, cái nghề viết lách là nguồn thu nhập chủ yếu của Hộ và có thể chỉ nuôi được mỗi mình anh. vậy mà bây giờ đây, cái nghề viết lách kia phải gánh thêm cái nợ vợ con Hộ trên vai. Văn sĩ này phải viết “vội vàng” những tác phẩm “nhạt nhẽo”, “một vài ý rất thông thường quấy loãng trong thứ văn bằng phẩng và quá ư dễ dãi”. Anh là một nhà văn yêu nghề, lương tâm nghề nghiệp đúng đắn mà bây giờ đây lại phải “dối trá”, “vô lương” như một kẻ hèn nhát, “tiểu nhân thị uy”. Quả thế, Hộ quan niệm “sự cẩu thả trong văn học thì thật là ti tiện”. Không chỉ riêng hộ, mà mỗi người trên toàn cầu này, nếu như là con người thì họ đều sống theo quan niệm của mình. vậy mà cái số phần “áo cơm ghì sát đất” này đã bắt Hộ không được làm người, nếu như chưa bàn tới sẽ trở thành một thú vật, khi Hộ không thể sống theo điều anh đã quan niệm. Khốn khổ và khốn nạn thế đó! Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có người nào thấu hiểu được nỗi đau ý thức này? Không biết và không biết.
Vì Hộ là một văn sĩ có lương tâm và anh muốn qua những tác phẩm của mình, tình thương người sẽ được đưa tới khắp nơi, nên Hộ rất muốn có “một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết những tác phẩm khác cùng ra một thời”. người nào dám nghĩ rằng đây là sự kênh kịu của Hộ, sự kênh kịu của một kẻ “vốn nghèo”, lại “ti tiện” thế đây? Con người ta cũng có thể nghĩ như thế nhưng quả thực, Hộ đáng thương hơn là đáng ghét. Bởi xét như Hộ là một văn sĩ luôn biết “đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán” thì không lý nào ước mơ kia lại là sư kiêu ngạo. Và anh muốn anh sẽ chỉ có một quyển sách thôi, một tác phẩm do chính ông viết “sẽ ăn giải Nô-ben và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn vũ”.
Tưởng nghe đâu thảm kịch về nghề nghiệp của Hộ đã là quá đủ đối với anh nhưng không, cái xã hội này không tha cho anh. Nó vẫn bắt anh phải chịu những thảm kịch khác. Và rồi bao nhiêu tài năng lẫn cái đức độ của Hộ lại trở thành cái cớ, cái nền rất chắc cho những thảm kịch sau này anh phải chịu. nếu như như chính cái tài năng viết văn của mình, hay thậm chí chỉ là quan niệm “văn học chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa người nào khơi và sáng tạo những gì chưa có” đã khiến cho Hộ phải “lãnh đủ” cái thối tha, cái dối trá, cái vô lương thậm chí là cái ti tiện của một kẻ “ngòi bút thơ” cẩu thả, vội vàng; thì chính cái lòng thương người của anh lại là một trợ lực rất chắc, một hậu phương vững vàng cho cái thảm kịch về lòng thương người. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một người nào khác mà cuộc thế của họ giống như Hộ, đầy rẫy những tranh chấp trong tâm hồn. Không biết và không biết. có nhẽ Hộ là người duy nhất. Và chắc Nam Cao cũng là người duy nhất ác tới mức phải đẩy hết nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, xem ra thì những nhân vật này có nhẽ làm chó sướng hơn. Lật lại những tác phẩm của Nam Cao, Chí Phèo lẫn lão Hạc đều cũng phải sống trong những hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn. nếu như như Hộ phải chịu sự tranh chấp về ý thức thì Chí Phèo lại phải suốt ngày say khướt để rồi om xòm thôn xóm cùng bầy chó, cũng như lão Hạc phải kết thúc cuộc thế mình bằng bả chó. Qủa thật làm chó sướng hơn.
có nhẽ Nam Cao là một nhà văn thiếu đi một “lương tâm”, mà cái xã hội thối nát xưa cần có, là giả dối, là ti tiện. Ông đã thương thì phải thương tới cùng. Từ khi mở đầu cho “Đời thừa”, Nam Cao nhường nhịn như đã vô tình đặt lòng thương người của Hộ vào Từ. Họ lấy nhau và rồi tưởng nghe đâu Hộ sẽ yêu thương Từ mãi mãi. Nhưng “sông có khúc, con người có lúc”. Quả thế, đã có lúc khi nghĩ về gia đình mình, Hộ “đã đứng phắt dậy, mắt tràn ngập nước” và khởi đầu giận ghét Từ. Một cơn “điên người lên” chưa từng thấy ở Hộ đã có thể nhường nhịn như thay đổi toàn bộ khuân mặt của Hộ, thậm chí là giết mổ chết Hộ. Bởi nếu như anh là một con người có lòng thương người tha thiết thì hẳn Hộ đã không có những hành động như thế. Khốn khổ và khốn nạn thế đó! Nhưng anh không phải là người dễ chiều theo cái thói “điên người lên” của mình. Hộ đã kết thúc nó bằng cách lao vào cơn say mèn của rượu chè. Lại thêm một Chí Phèo nữa. Nhưng lần này Nam Cao lại “nhẹ tay” hơn khi vẫn để cho văn sĩ Hộ còn sống, tỉnh ra và nhận thấy cái dối trá, vô lương, ti tiện của chính mình. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một nhà trí thức nào có một cuộc sống như Hộ. Không biết và không biết.
Và chắc có nhẽ rằng Nam Cao không phải là người duy nhất khi khắc họa nên thảm kịch của một người trí thức. Người đời còn có thể thấy được bị kịch này trong nỗi niềm của Nguyễn Khuyến.
“Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”
Nguyễn Khuyến như đang vạch trần khuân mặt hèn đớn của lối học giả, hư danh xưa. những người trí thức thật, những “tiến sĩ thật” thì nhường nhịn như đã bị xã hội vùi dập trong vũng sâu của thời đại. Dù có tài giỏi hay đạo đức tới đâu, khốn khổ cũng như khốn nạn là đây!
Con người đời này khi đọc lại tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, có nhẽ nhường nhịn như tất cả đều không khỏi ngạc nhiên về cách mô tả nhân vật rất sắc sảo tới tương tự. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có người nào khác có thể nhập vai nhân vật tuyệt vời như Nam Cao? Không biết và không biết. Nam Cao như hóa thân chính mình vào hoàn cảnh đó để rồi từ tâm lí, lời nói, cách xưng hô, hành động, suy nghĩ đều rất thích hợp. Tác phẩm chỉ kéo dài một ngày từ sáng ngày hôm trước tới sáng ngày hôm sau mà tâm lí nhân vật văn sĩ Hộ đã được toát lên cách đặc biệt và Hộ nhường nhịn như trở thành đại diện cho giới tri thức trong xã hội Việt Nam trước cách mệnh tháng Tám.
Xuyên suốt quá trình khắc họa vẻ đẹp nhân vật Hộ, Nam Cao đã nhiều lần đưa chính ông, Hộ và cả người đọc quay đi quay về với quá khứ và hiện tại để rồi toát lên cái tài năng, cái đức độ của một con người có hoài bão, lương tâm nghề nghiệp và quan niệm văn học đúng đắn. Nhưng rồi cũng vì những điều đó đã dẫn Hộ tới cảnh “điên người lên” vì thảm kịch nghề nghiệp, thảm kịch lương tâm. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có một người nào giống như Hộ? Không biết và không biết. Khốn khổ và khốn nạn là đây!
Tìm hiểu trị giá nhân đạo của tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao
trị giá nhân đạo là trị giá cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực đã giày xéo lên quyền sống của con người.
Lời giải:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: trị giá nhân đạo là trị giá cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực đã giày xéo lên quyền sống của con người. Cũng từ lòng nhân đạo, nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người và kêu gọi phóng thích tư nhân ra khỏi những khổ đau và xấu số. Truyện ngắn “Đời thừa” ra đời năm 1943, là tác phẩm phản ánh sâu sắc và rõ nét về cuộc sống của những người trí thức tiểu tư sản nghèo ở nước ta trong bối cảnh quốc gia bị ngoại bang giày xéo. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn và thực sự trở thành “tiếng kêu khổ đau kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nam Cao đã phản ánh một cách rõ nét và trung thực những thảm kịch lớn của người trí thức đương thời và chứa tiếng kêu cứu thảm thiết đòi quyền sống cho họ.
2. Trong tác phẩm “Đời thừa”, Nam Cao đã xây dựng thành công trị giá nhân đạo sâu sắc ấy.
a. Biểu hiện thứ nhất của trị giá nhân đạo là nhà văn xót xa thương cảm trước những nỗi khổ đau của nhà văn Hộ khi sụp đổ giấc mộng văn học và thảm kịch tình thương.Nam Cao đã xót thương và đồng cảm trước thảm kịch ý thức của nhân vật Hộ , một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc thế, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành khoanh tay bất lực. Có thể nói, thảm kịch trước hết trong tấn thảm kịch ý thức của cuộc thế Hộ là thảm kịch về những giấc mộng văn học. Anh mong ước tới một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập tới những vấn đề giận dữ của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đớn đau vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình chưng ái, sự công bình. Nó làm cho người sắp người hơn.” Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel !
Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác thế nào ? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Anh dằn vặt gớm ghê, anh lên án chính mình “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự vô lương, còn sự cẩu thả trong văn học thì thật là ti tiện”.Chính nỗi lo về tiền nong đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn học nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn học thì chắc đời anh chẳng khốn đốn tới thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – những tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đớn đau, càng khổ đau. Chao ôi ! “đớn đau thay cho những kiếp sống muốn chứa cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là thảm kịch của cuộc thế viết văn của anh – thảm kịch của những giấc mộng văn học chính là ở chỗ đó !
thảm kịch trước hết của cuộc thế nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho thảm kịch thứ hai – thảm kịch của một con người. Giấc mộng văn học sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút yên ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Quả là một sai phép khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ những giấc mộng văn học chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Thất vọng trong văn học, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Và rượu – kẻ “làm đỏ mặt và đen danh dự” đã đưa Hộ thành kẻ vi phạm nguyên tắc tình thương. Anh trở thành kẻ vũ phu, kẻ vô học. Rượu đẩy Hộ tới bờ vực của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu vì sao anh về được tới nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi thủ công rời rã. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho thảm kịch trong anh xuất hiện. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được yên ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. ngờ đâu, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. vậy mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng giày xéo nốt. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. thảm kịch này của anh, lớn hơn gấp bội thảm kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao trị giá phẩm giá khác sụp đổ. Viết về nỗi đau này, Nam Cao nhường nhịn như cũng đang thổn thức cùng nhân vật.
b. Biểu hiện thứ hai của trị giá nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” là tiếng nói của nhà văn lên án tố cáo thế lực đã gây ra nỗi đau cho nhà văn Hộ, đẩy Hộ tới bờ vực của sự tha hóa, của thảm kịch kinh khủng. thảm kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn học. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh giày xéo lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có nhẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhìn thấy. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.
c. Biểu hiện thứ ba của trị giá nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” đó chính là nhà văn phát hiện và trân trọng nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn Hộ.Hộ là nhà văn chân chính. Anh là nhà văn rất có ý thức về nghề nghiệp. Anh mê văn, say văn và có giấc mộng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết được một tác phẩm mà sẽ “làm mờ hết tất cả những tác phẩm ra cùng thời”. Đó là tác phẩm “truyền tụng tình thương, lòng chưng ái, sự công bình. Nó làm người sắp người hơn”. Tác phẩm đó phải đạt giải Nobel. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng thèm khát tương tự khi bước vào tuyến đường văn học đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng tuyến đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình.Hộ lên án thứ văn học rẻ tiền, nông cạn, dễ dãi. Thứ văn học “cẩu thả”, “vô lương”. Hộ yêu cầu văn học phải sáng tạo, bởi “văn học chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa người nào khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hộ đầy hoài bão về giấc mơ chinh phục đỉnh cao. Anh là nhà văn chân chính.
Không chỉ vậy, Nam Cao còn phát hiện ra Hộ là con người giàu lòng nhân ái. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có trị giá là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình chưng ái, sự công bình”. Trong văn học, anh muốn truyền tụng tình thương và trong cuộc thế thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho tới khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng tới giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương – lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp biết nhường nhịn nào!
d. Biểu hiện cuối cùng của trị giá nhân đạo là niềm tin của Nam Cao vào khả năng vươn dậy của nhân vật. Cuối tác phẩm là hình ảnh Hộ ôm từ vào lòng. Bao nhiêu đớn đau, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc. Tiếng “khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp mạnh” của Hộ cho ta thấy sự hối hận và khổ đau lên tới tột cùng của người trí thức tiểu tư sản nghèo có tư cách. Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá. Chắc chắn đằng sau những giọt nước mắt ấy là sự “trở về” của nhà văn Hộ.
3. Đánh giá chung :Tư tưởng nhân đạo mới mẻ của Nam Cao thể hiện ở việc nhà văn biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ. Những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm mông mênh đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm. nhường nhịn như những day dứt trong cuộc thế ông – cuộc thế văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn thảm kịch ý thức của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước cách mệnh.
Có thể tự tin mà nói rằng với “Đời thừa”, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng thảm kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người tới thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự truyền tụng khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự thông cảm sâu sắc với người trí thức… Và viết lên được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao.Qua thảm kịch ý thức trước hết này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự thông cảm, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc thế này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của ông cha lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.
III. KẾT BÀITóm lại, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.